Trang: 106
Tập XXIII, số 10 (146) 2013 Số đặc biệt
Đặc điểm dịch tễ học bệnh sốt xuất huyết Dengue dựa vào hệ thống giám sát trọng điểm ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long năm 2012-2013
Epidemiological characteristics of Dengue hemorrhagic fever based on sentinel surveillance system in Mang Thit district, Vinh Long province in 2012-2013
Tác giả: Diệp Thanh Hải, Lương Chấn Quang, Đỗ Kiến Quốc, Nguyễn Thanh Vũ,
Nguyễn Thị Thanh Thảo, Cao Minh Thắng, Bùi Chí Tâm, Lý Huỳnh Kim Khánh,
Phạm Thị Thúy Ngọc,Trần Ngọc Hữu
Tóm tắt:
Hiện nay, thông tin về đặc điểm dịch tễ bệnh Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) thu thập từ khối cảm thụ,
véc-tơ và virus ở cùng một nơi, cùng một khoảng thời gian là thật sự cần thiết và việc thiết lập hệ thống
giám sát trọng điểm bệnh SXHD (GSTĐ) để ghi nhận các thông tin này là phù hợp. Vì vậy, đề tài nghiên
cứu nhằm mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh SXHD ở huyện Mang Thít, vùng lưu hành SXHD thấp của tỉnh
Vĩnh Long, thông qua việc triển khai hệ thống GSTĐ bệnh SXHD được tiến hành trong thời gian một năm.
Nghiên cứu cắt ngang triển khai từ tháng 7/2012 đến tháng 06/2013 tại Bệnh viện đa khoa huyện Mang
Thít đã thu tuyển, lấy mẫu xét nghiệm 87 trường hợp chẩn đoán SXHD và điều tra véc-tơ định kỳ tại 02 xã
Tân Long Hội và An Phước của huyện Mang Thít. Trong 31 mẫu NS1(+) (35,6%, 31/87), 16 chủng virus
Dengue (DEN) phân lập được (51,6%, 16/31) bao gồm DEN-1 (35,5%), DEN-4 (9,7%) và DEN-2 (6,5%).
Ca mắc SXHD tập trung vào mùa mưa (tháng 7 đến tháng 10) và không khác biệt về giới tính (nam 50,6%
và nữ 49,4%). 67,8% ca bệnh SXHD là trẻ em (≤ 15 tuổi), chủ yếu là học sinh (54%) và trẻ ≤ 6 tuổi (23%).
Yếu tố dấu dây thắt dương tính, gan to, bạch cầu giảm ≤ 5.000/mm3 và tiểu cầu giảm ≤100.000/mm3 trong
nhóm xét nghiệm DEN dương tính có tỷ lệ cao có ý nghĩa thống kê so với nhóm âm tính (p<0,05). Muỗi
vằn, Aedes aegypti, là véc-tơ chính lan truyền bệnh SXHD ở điểm nghiên cứu với mức độ lưu hành cao
quanh năm (BI>20 và HI>10%). Đặc điểm dịch tễ bệnh SXHD ở huyện Mang Thít khá tương đồng với khu
vực phía Nam về tuổi mắc bệnh, nhóm nghề nghiệp mắc cao, dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng. Việc
triển khai xét nghiệm kháng nguyên NS1 ở Bệnh viện tuyến huyện là khả thi, phục vụ hiệu quả cho điều trị
và dự phòng cũng như gia tăng tỷ lệ phân lập virus DEN khi tiến hành trên mẫu huyết thanh cấp đã được
sàng lọc với xét nghiệm NS1. Hoạt động GSTĐ bệnh SXHD cần duy trì ít nhất 3-5 năm nhằm thu thập đầy
đủ, liên tục các dữ liệu liên quan và hoàn chỉnh các chỉ số dự báo dịch SXHD, góp phần dự báo xu hướng
dịch chuẩn xác hơn.
Summary:
File nội dung:
yhdp_origin106_10_2013.pdf
Tải file: